Bệnh mạch vành là bệnh của các động mạch nuôi tim, còn được gọi là bệnh tim thiếu máu cục bộ, suy động mạch vành hay còn gọi là suy mạch vành. Đây là loại bệnh khá thường gặp ở các nước phát triển, có xu hướng gia tăng mạnh ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Tại Mỹ, số lượng bệnh nhân mắc bệnh mạch vành hằng năm được ước tính khoảng 13.200.000 người (trên tổng dân số 300 triệu người). Tại châu Âu, tỷ lệ mắc mới bệnh mạch vành trong dân số ước tính từ 3.5 – 4.1%. Tại Việt Nam, theo số liệu của Viện Tim mạch Quốc gia, tỉ lệ mạch vành tăng dần qua các năm, năm 1991 là 3%, năm 1996 là 6.05%, năm 1999 là 9.5%. Tỉ lệ tử vong do bệnh mạch vành chiếm từ 11 – 36%. Bệnh mạch vành hiện là một gánh nặng cho sức khỏe cộng đồng ở các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Đặc điểm giải phẫu sinh lý động mạch vành:
Tim là khối cơ rỗng, là cơ quan trung tâm đảm bảo chức năng bơm máu của hệ tuần hoàn, cơ tim được cấp máu, ôxy và chất dinh dưỡng thông qua hệ thống động mạch vành.Có hai động mạch vành (ĐMV): ĐMV trái và ĐMV phải xuất phát ở gốc ĐMC qua trung gian là những xoang Valsalva, và chạy trên bề mặt của tim (giữa cơ tim và ngoại tâm mạc). Những xoang Valsalva có vai trò như một bình chứa để duy trì một cung lượng vành khá ổn định.
Về vai trò cấp máu: Động mạch vành phải cấp máu cho thất phải và 25 - 35% thất trái; động mạch liên thất trước cấp máu cho 45 - 55% thất trái, động mạch mũ cấp máu cho 15 - 25% thất trái. Về mặt đại thể, tuần hoàn vành không có vòng nối, tuy nhiên luôn tồn tại vòng nối giữa các nhánh của một thân hoặc giữa hai thân động mạch vành. Các vòng nối này được gọi là tuần hoàn bàng hệ của động mạch vành, khi tuần hoàn vành bình thường thì các vòng nối không mở, khi có hẹp hoặc tắc một nhánh hoặc một thân, hệ bàng hệ mở ra nhằm tưới máu cho vùng cơ tim bị thiếu máu tương ứng.
Triệu chứng lâm sàng:
Biểu hiện lâm sàng thường gặp của bệnh mạch vành là cơn đau thắt ngực chiếm tỉ lệ ~ 50%, tuy nhiên người bệnh đôi khi cũng hoàn toàn không có biểu hiện lâm sàng nhất là khi mức độ bệnh còn nhẹ. Theo phân loại của Hội tim mạch Việt Nam, cơn đau ngực được chia thành:
-Cơn đau thắt ngực điển hình: Khi có cả 3 tiêu chuẩn: Đau, tức sau xương ức với tính chất cơn đau và thời gian điển hình; xảy ra khi gắng sức hoặc stress tình cảm; giảm khi nghỉ gơi hoặc sử dụng Nitroglycerine.
-Đau ngực không điển hình: Có 2 trong 3 tiêu chuẩn trên.
-Đau ngực không đặc hiệu: Có ≤ 1 trong 3 tiêu chuẩn trên.
Xét nghiệm cận lâm sàng:
- Điện tâm đồ (nghỉ tĩnh và gắng sức): Trên 50% bệnh nhân có cơn đau thắt ngực ổn định có điện tâm đồ nghỉ tĩnh bình thường. Như vậy điện tâm đồ nghỉ tĩnh bình thường cũng không loại trừ bệnh mạch vành. Điện tâm đồ gắng sức với xe đạp lực kế hoặc thảm lăn cho tỉ lệ âm tính giả thấp hơn, là một phương pháp chẩn đoán bệnh mạch vành thường được sử dụng trên lâm sàng với protocol gắng sức gần tối đa.
- Siêu âm tim (nghỉ tĩnh và gắng sức): Theo Catherine Otto, dấu hiệu rối loạn vận động vùng là biểu hiện của tình trạng thiếu máu cơ tim cục bộ bao gồm: giảm động, vô động, loạn động, thành tim mỏng và không dày lên trong thì tâm thu.
- Chụp cắt lớp vi tính đa dãy (MSCT) là một phương pháp ưu thế trong chẩn đoán bệnh mạch vành, tương đối phổ biến vì là phương pháp không xâm lấn, cho kết quả tốt với mức giá cả hợp lý; MSCT đặc biệt có ý nghĩ trong chẩn đoán loại trừ, thích hợp trong công tác sàng lọc để giảm thiểu số lượng bệnh nhân phải chụp mạch vành xâm lấn một cách không cần thiết.
- Chụp cộng hưởng từ timcó các thuận lợi so với các kỹ thuật khác như độ phân giải không gian cao, tương phản mô mềm cao, nhiều mặt cắt, không tia xạ, không xâm lấn. Ngày nay, cộng hưởng từ tim được ứng dụng rộng rãi không chỉ trong bệnh lý mạch vành mà còn trong các bệnh lý van tim, tim bẩm sinh, cơ tim, suy tim... Tuy nhiên giá thành của phương pháp cao, thời gian chụp kéo dài, không sẵn có ở nhiều cơ sở y tế.
- Chụp xạ hình tưới máu cơ tim (SPECT, PET) là phương pháp không xâm lấn tối ưu giúp đánh giá đầy đủ vị trí và mức độ tắc/hẹp của các động mạch vành, tình trạng sống còn của vùng cơ tim bị nhồi máutừ đó giúp các bác sĩ đưa ra chỉ định điều trị đúng đắn (nội khoa, can thiệp hay phẫu thuật...). Ngoài ra, phương pháp này còn mang ý nghĩa đánh giá tiến triển sau quá trình điều trị thông qua việc định lượng mật độ phân bố phóng xạ tương ứng với lượng máu cung cấp cho cơ tim.
- Chụp động mạch vành xâm lấn: Là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán bệnh mạch vành. Tuy nhiên, đây là một phương pháp xâm lấn, có chi phí cao và có tỷ lệ biến chứng khoảng 2%, kỹ thuật này hiện nay không là phương tiện tầm soát trên diện rộng.
Tổng kết:
Bệnh mạch vành là một bệnh lý nguy hiểm, có thể để lại hậu quả trầm trọng về sức khỏe cũng như kinh tế nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Bài học từ các nước đã phát triển cho thấy, để giảm thiểu gánh nặng bệnh lý tim mạch nói chung và bệnh lý mạch vành nói riêng với sức khỏe cộng đồng, cần phải có những hành động mạnh mẽ trước hết từ công tác phòng bệnh, giáo dục sức khỏe; sàng lọc phát hiện sớm để bệnh nhân được điều trị kịp thời, kiểm soát tích cực các yếu tố nguy cơ và ổn định mảng xơ vữa, giúp giảm tỷ lệ tử vong và cải thiện chất lượng sống của người bệnh.
Nguồn: KhamBenh.net